Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, việc đặt tôn miếu của các Triều đại phong kiến từng được xác định là một việc hệ trọng, có liên tiếp đến vận mệnh của một Vương triều. Tôn miếu và xã tắc là những khái niêm thiêng liêng, cùng chung sự tồn vong, muốn giữ yên ngôi báu thì Vương tộc cùng muôn dân phải dốc khí đồng lòng bảo vệ, gìn giữ. Khi giặc Mông – Nguyên tràn vào bờ cõi Đại Việt, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn có bài Hịch khuyên nhủ các tướng sĩ, ông đã cảnh báo nếu để non sông rơi vào tay giặc thì: “Không những xã tắc, tôn miếu của ta bị người khác dày xéo mà mồ mả cha mẹ các ngươi cũng bị bới đào.”. Theo truyền thống, với tâm thức “lá rụng về cội” dường như triều đại nào cũng chọn nơi phát tích để đặt tôn miếu
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, việc đặt tôn miếu của các Triều đại phong kiến từng được xác định là một việc hệ trọng, có liên tiếp đến vận mệnh của một Vương triều. Tôn miếu và xã tắc là những khái niêm thiêng liêng, cùng chung sự tồn vong, muốn giữ yên ngôi báu thì Vương tộc cùng muôn dân phải dốc khí đồng lòng bảo vệ, gìn giữ. Khi giặc Mông – Nguyên tràn vào bờ cõi Đại Việt, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn có bài Hịch khuyên nhủ các tướng sĩ, ông đã cảnh báo nếu để non sông rơi vào tay giặc thì: “Không những xã tắc, tôn miếu của ta bị người khác dày xéo mà mồ mả cha mẹ các ngươi cũng bị bới đào.”. Theo truyền thống, với tâm thức “lá rụng về cội” dường như triều đại nào cũng chọn nơi phát tích để đặt tôn miếu
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, việc đặt tôn miếu của các Triều đại phong kiến từng được xác định là một việc hệ trọng, có liên tiếp đến vận mệnh của một Vương triều. Tôn miếu và xã tắc là những khái niêm thiêng liêng, cùng chung sự tồn vong, muốn giữ yên ngôi báu thì Vương tộc cùng muôn dân phải dốc khí đồng lòng bảo vệ, gìn giữ. Khi giặc Mông – Nguyên tràn vào bờ cõi Đại Việt, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn có bài Hịch khuyên nhủ các tướng sĩ, ông đã cảnh báo nếu để non sông rơi vào tay giặc thì: “Không những xã tắc, tôn miếu của ta bị người khác dày xéo mà mồ mả cha mẹ các ngươi cũng bị bới đào.”. Theo truyền thống, với tâm thức “lá rụng về cội” dường như triều đại nào cũng chọn nơi phát tích để đặt tôn miếu.
Nhà Lý phát tích từ châu Cổ Phát (Bắc Ninh). Lý Công Uẩn lên ngôi từ kinh đô Hoa Lư, sau rời đô về Thăng Long nhưng triều Lý đã chọn Cổ Phát - Đình Bảng – Bắc Ninh làm tôn miếu để xây dựng lăng tẩm an táng các vị tiên đế cùng Hoàng tộc. Nhà Lê dấy nghĩa từ đất Lam Sơn, khi đã giành được giang sơn, đóng đô ở Thăng Long nhưng vẫn lấy núi rừng Lam Sơn làm nơi đặt tôn miếu.
Tổ tiên nhà Trần vốn làm nghề đánh cá từ đất Đông Triều. Đến đời Trần Kinh thì chuyển về Tức Mặc (Nam Định) và qua đời ở đó. Con trai Trần Kinh là Trần Hấp, nhờ tìm được thế đất tốt đã rời mộ bố về táng tại Thái Đường, Long Hưng, nay thuộc xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và cư trú tại đây. Từ nghề đánh cá, Trần Hấp cùng con cháu chuyển dần lên bờ làm ruộng và trở nên giàu có, ngày càng có thế lực mạnh để bước vào vũ đài chính trị. Đến đời thứ tư Trần Cảnh thì được trao ngôi báu từ tay nhà Lý.
Nhà Trần đã chọn Thái Đường – Long Hưng làm nơi đặt tôn miếu để xây dựng lăng tẩm an táng các vị vua và hoàng hậu đầu triều cùng nhiều trọng thần trong Hoàng tộc. Thái tổ Trần Thừa được táng tại Thọ Lăng, Thái Tông táng tại Chiêu Lăng, Thánh Tông táng tại Dụ Lăng, Nhân Tông táng tại Đức Lăng, đều thuộc đất Thái Đường. Hiển Tông táng tại An Lăng, xã Thâm Động, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, ngày nay thuộc phần xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà.
Còn lại các vua Anh Tông, Minh Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông, Thuận Tông được táng tại Đông Triều. Vùng đất Tức Mặc, Nam Định được xây dựng thành cung để các vị Thượng Hoàng về nghỉ ngơi tĩnh dưỡng.
Về tôn miếu, nơi đặt lăng tẩm các vua Trần, sách Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư) cùng nhiều bộ sử lớn của quốc gia đã ghi chép khá cụ thể, tường tận. Còn về đất phát tích của nhà Trần, vì một chi tiết ghi chép thiếu đầy đủ của Toàn thư nên xưa và nay nhiều người vẫn chưa hiểu được một cách rạch ròi. Khi chép về Thái Tông Hoàng Đế sách Toàn thư đã chép: “Trước kia, tổ tiên Vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh đến hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc tỉnh Nam Định), sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá, Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê…”. Chính chi tiết này đã mâu thuẫn với toàn bộ các chi tiết khác được chép trong Toàn thư về các sự kiện Trần Hấp rời mộ bố về táng tại Thái Đường, Long Hưng, định cư ở đó và sinh ra Trần Lý. Chính Toàn thư cũng đã chép khá tường tận về sự kiện Thái tử nhà Lý là Sảm chạy loạn về vùng đất này lấy con gái Trần Lý là Trần Thị Dung làm vợ, rồi trở thành Hoàng Hậu nhà Lý. Đây là duyên cớ quan trọng mang tính quyết định giúp con Trần Lý là Trần Thừa, cháu Trần Lý là Trần Thủ Độ, cùng nhiều danh thần khác vốn sinh ra và trưởng thành từ vùng đất Long Hưng tiến sâu thêm, leo cao hơn, nắm giữ những cương vị trọng yếu trong triều đình nhà Lý để dẫn đến chung cục nhà Lý đã trao vương triều cho nhà Trần dưới sự đạo diễn tài ba của Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ và Hoàng hậu Trần Thị Dung như Toàn thư đã chép.
Mấy thập kỷ gần đây trong các hội thảo khoa học với sự tham gia của hầu hết các sử gia đầu ngành của nước ta mà cơ quan đồng chủ trì là Viện sử học Việt Nam và Hội khoa học lịch sử Việt Nam đã giải quyết khá thoả đáng về đất phát tích – sáng nghiệp của nhà Trần. (xin xem thêm: Nhà Trần và con người thời Trần – Viện Sử học – Hội khoa học lịch sử Việt Nam – Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và văn hoá Việt Nam xuất bản – Hà Nội – 2004).
Về vùng đất Thái Đường, thời Trần thuộc huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng, nay thuộc xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Tại đây nhà Trần đã xây dựng hành cung Long Hưng nguy nga tráng lệ, đặt lăng tẩm và đền thờ các bậc Tiên đế. Thế đất đặt hành cung và lăng tẩm được lưu truyền là “Tiền tam thai hậu thất tinh”. Phía trước hành cung đặt các lăng tẩm để an táng và phụng thờ các bậc Tiên đế cùng Hoàng hậu. Toàn thư và các bộ sử của nước ta ghi chép nhiều sự kiện khác, các vua Trần cùng Hoàng tộc và triều thần thường xuyên về thăm viếng mỗi khi có sự kiện trọng đại của quốc gia. Khi quân Mông – Nguyên chiếm đóng Long Hưng đã phá huỷ toàn bộ hành cung và các lăng tẩm. Ghi chép về sự kiện ngày 17 tháng 3 năm Mậu Tý (1288) Thượng Hoàng Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đem các tướng giặc bị bắt về làm lễ dâng thắng trận ở Long Hưng, sách Toàn thư đã chép: “Trước đó, quân Nguyên đã khai quật chiêu lăng (lăng Trần Thái Tông) muốn phá đi, nhưng không phạm được tới quan tài…”.
Về sự kiện Thượng hoàng Trần Nhân Tông xuất gia, tu ở ngọn Tử Tiêu núi Yên Tử, trở thành Tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm đời Trần và băng ở đó vào ngày mùng 3 tháng 11 năm Mậu Thân (1308), xác ngài được thiêu đưa về chùa Tư Phúc ở Kinh sư (Thăng Long) đã được Toàn thư ghi chép khá cụ thể. Về đám rước linh cữu Trần Nhân Tông từ Thăng Long về an táng tại lăng Quy Đức (Đức Lăng) ở Long Hưng vào năm Canh Tuất (1310) cũng được Toàn thư ghi chép tường tận: “Mùa thu, tháng 9, ngày 16, rước linh cữu Thượng hoàng về chôn ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ thì cất ở bảo tháp Ngoạ Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hoá Dân Long Từ Hiển Hiện Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế. Đem Khâm Từ Bảo Thành Thái Hoàng Hậu hợp táng ở đấy”.
Trước đó, linh cữu Nhân Tông tạm quàn ở điện Diên Hiền. Khi sắp đưa rước, đã đến giờ rồi mà quan lại và dân chúng còn đứng chật cả cung điện. Tể tướng cầm roi xua đuổi mà vẫn không dãn ra được. Vua gọi cho Chi hậu chánh chưởng Trịnh Trọng Tử tới bảo: “Linh cữu sắp đưa rồi mà dân chúng đầy nghẽn như vậy thì làm thế nào? Ngươi hãy làm cho họ tránh ra.
Trọng Tử lập tức đến thềm điện Diên Trì gọi quan Hải khẩu và quân Hổ dực (quân do Trọng Tử trông coi) đến ngồi thành hàng trước thềm, sai hát mấy câu điệu Long Ngâm. Mọi người đều kinh ngạc, kéo nhau đến xem, cung điện mới dãn người, bèn rước linh cữu Thượng hoàng về lăng Quy Đức.
Trọng Tử lo dọc đường thế nào cũng có chỗ cao thấp quanh co, nếu nghiêm túc im lặng thì sợ có sự nghiêng lệch, nếu truyền gọi bảo ban thì lại e ồn ào, bèn đem những lời dặn về cách đi đứng dàn hàng, phổ vào khúc hát Long Ngâm, sai người hát lên để bảo nhau…”
Về sự kiện này sử thần Ngô Sĩ Liên đã có lời bàn: “Triều đình cốt phải nghiêm. Rước đưa linh cữu thì cần gì đến tể tướng dẹp người, hữu ty dùng kế mới đi được? Là bởi nhà Trần khoan hậu thì có thừa mà nghiêm khắc thì không đủ vậy!”
Như trên đã trình bày, hành cung Long Hưng và lăng tẩm các vua Trần cùng Hoàng tộc đã bị giặc Mông – Nguyên tàn phá. Có lẽ, để bảo toàn phần mộ, đề phòng chiến tranh tiếp diễn nên hầu hết lăng tẩm các vua Trần từ Trần Anh Tông về sau được đưa về đặt tại Đông Triều. Vùng đất Thái Đường, nơi đặt tôn miếu nhà Trần dần trở nên hoang phế. Sau khi toàn thắng giặc (chưa rõ vào năm nào), ngôi đền thờ các vua Trần đã được phục dựng lại, còn hành cung và lăng tẩm đã trở thành phế tích. Tiếc thay, ngôi đền này cũng đã bị phá huỷ khi thực dân Pháp đổ bộ lên đất Thái Bình vào giữa thế kỷ trước. Nhân dân trong làng còn giữ được một số đồ thờ tự, trong đó có chiếc bài vị với dòng chữ: Thái Tông Hoàng Đế vị. Sau năm 1954, dấu tích của khu mộ táng các vua, hoàng hậu cùng Hoàng tộc nhà Trần còn dễ dàng nhận được. Từ sau năm 1954 trở lại đây phần nhiều những ngôi mộ phía sau hành cung nằm xen kẽ trong khu dân cư đã bị hư hao dần. Tại thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, nơi đặt hành cung và lăng tẩm, khi đào xuống 30-50cm vẫn thường gặp những hiện vật thời Trần như gạch, ngói, đầu rồng, tượng đất nung và đồ gốm sứ…. Qua những lần khai quật và thám sát khảo cổ học, tuy chưa được tiến hành một cách có hệ thống nhưng bước đầu đã có thể hình dung được một số đường đi và vị trí đặt tẩm điện trong hành cung. Di chỉ khảo cổ học Tam Đường đã được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng di tích quốc gia. Phía trước hành cung gồm các nấm phần mang tên phần Cựu, phần Đa, phần Thính, phần Bụt… là những ngôi mộ khá lớn. Đồng chí Đỗ Mười – nguyên Tổng bí thư ban chấp hành Trung ương Đảng từng hoạt động ở Tam Đường vào những năm 1950 – 1953, năm 2003 khi về thăm lại đã kể rằng: Đó là những ngôi mộ cao như những trái núi giữa đồng bằng, riêng phần Cựu, tương truyền là mộ táng Trần Thừa (tức Trần Thái Tổ) đã bị san bằng, năm 1979 khi làm thủy lợi nhân dân đã phát hiện thấy, bảo tàng tỉnh đã tiến hành khai quật.
Đến nay phía trước hành cung còn 3 ngôi mộ có tên phần Bụt (phần Sỏi), phần Thính, phần Trung. Theo truyền ngôn của địa phương thì phần Bụt hay gọi là phần Sỏi (vì mộ được ấp trúc bằng đất sét luyện với sỏi) là mộ Trần Nhân Tông. Đây là ngôi mộ lớn như trái núi án ngữ phía Nam Tam Đường. Ngôi mộ này từng bị san bạt nhiều, thậm chí có một thời do vô thức đã đào lấy sỏi dải đường. Thế nhưng, quy mô vẫn còn tới 400m2 với khối lượng đất và sỏi ấp trúc khá lớn. Nếu tính từ trên xuống thì quách đã bị lộ. Trên là quách đá với những phiến đá khổng lồ, dưới là quách gỗ. Rải rác phía trên mộ có những viên gạch Trần giống như những viên gạch ở tháp Phổ Minh (Nam Định).
Riêng lăng mộ Thái sư Trần Thủ Độ và Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung được đặt tại xã Phù Ngự, thời Nguyễn đổi là xã Khuông Phù nay thuộc xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà. Sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn có viết khá chi tiết về lăng mộ Trần Thủ Độ.
Từ năm 2000, tỉnh Thái Bình đã lập dự án tôn tạo đền thờ, lăng mộ các vua Trần tại xã Tiến Đức và lăng mộ đình, đền thờ Thái sư Trần Thủ Độ, Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung tại xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà. Dự án đã được sự thoả thuận, góp ý của Bộ Văn hoá Thông tin. Bằng nguồn vốn của tỉnh và sự hỗ trợ bước đầu của Trung ương, đến nay ngôi đền thờ các vua Trần với phần hậu cung thờ liệt tổ nhà Trần, phía thờ các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông với những tượng đồng cỡ lớn cùng ba ngôi mộ của các ngài ở phía trước đền và đền thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã cơ bản hoàn thành. Lăng mộ, đình, đền thờ Thái sư Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung ở xã Liên Hiệp cũng đang được trùng tu tôn tạo. Khi còn đương nhiệm, Chủ tịch nước Trần Đức Lương, Thủ tướng Phan Văn Khải cùng nhiều vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đã về thăm và cổ vũ việc tôn tạo di tích này.
Thuở bình sinh, Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã từng nhắc nhở con cháu phải nhớ lấy gốc tổ tiên nhà mình làm nghề đánh cá ở vùng hạ lưu, với tâm thức “Sống ngâm da, chết ngâm xương” ở nơi chôn nhau cắt rốn, nhà Trần đã chọn đất Long Hưng – Thái Bình làm nơi đặt tôn miếu, xây dựng lăng tẩm làm nơi an nghỉ vĩnh hằng cho các vị vua đầu triều cùng Hoàng tộc. Do sự tàn phá để trả thù của giặc Mông – Nguyên, nơi đây đã trở nên hoang phế và thời nay nhiều người đã lãng quên. Việc đầu tư phục dựng lại các thiết chế tín ngưỡng ở nơi đặt tôn miếu nhà Trần ở Thái Bình là việc làm cần thiết để góp phần giúp các thế hệ hôm nay và mai sau hiểu đầy đủ hơn về lịch sử các triều đại Việt Nam.
Nguyễn Thanh